Học thuyết của John Bowlby

John Bowlby ( 1907-1990)

GẮN BÓ: (Attachment)

                                                                              BS.Phan Thiệu Xuân Giang

Chúng ta thường  nghĩ rằng các trường phái hành vi cấp tiến và phân tâm học cổ điển không có quan điểm phù hợp với nhau, nhưng khi xem xét mối gắn bó giữa cha mẹ và con, chúng ta thấy có nhiều điểm chung giữa hai trường phái này. Cả hai trường phái đều cho rằng trẻ nhũ nhi hình thành mối gắn bó tình cảm với người chăm sóc sau khi người chăm sóc đáp ứng các nhu cầu sinh học của trẻ. Cha mẹ những người cung cấp những cần thiết cơ bản cho trẻ như là thức ăn, lúc đó cha mẹ trở thành đối tượng mà trẻ có cảm xúc tích cực do trẻ được những người này cho ăn uống. Thực ra, đây là một mô hình điều kiện cổ điển (Classical conditioning): Thức ăn là một yếu tố củng cố không điều kiện cùng đi với sự hiện diện của người chăm sóc. Sau một số những lần cùng xuất hiện như thế, người chăm sóc trở nên một đối tượng mang lại cảm xúc tích cực và trở thành một yếu tố củng cố có điều kiện.

Tuy nhiên nghiên cứu trên hành vi của động vật linh trưởng gợi ý rằng có một nhu cầu cơ bản đối với việc âu yếm mà nó độc lập với các xung năng sinh học. 

Học thuyết gắn bó: Học thuyết gắn bó xuất phát từ Bowlby(1982), ông là người quan tâm đến mặt tập tính học trên hành vi con người. Bowlby cho rằng khi được đặt trong môi trường không có sự giúp đỡ, trẻ nhũ nhi có khả năng đáp ứng cao để duy trì sự tiếp xúc gần gũi với người chăm sóc đầu đời, bằng cách gắn bó với người chăm sóc, trẻ nhỏ đảm bảo được an toàn, thức ăn và cuối cùng là sống còn. Vì thế mục đích  được xác định của gắn bó là để duy trì sự gần gũi với người chăm sóc. Hành vi của trẻ được tổ chức xung quanh mục tiêu này và được thiết kế nhằm để làm gia tăng khả năng có thể xảy ra để mối quan hệ với người chăm sóc sẽ là một  mối quan hệ khoẻ mạnh. Hệ thống gắn bó được hoạt hoá bởi sự khó chịu dưới dạng các nhu cầu bên trong như là đói hay các yếu tố gây stress bên ngoài như sự nguy hiểm.

Các giai đoạn gắn bó:

Sự phát triển của gắn bó theo sau hàng loạt các giai đoạn có thể xác định được trong 3 năm đầu đời. Trẻ sơ sinh định hướng được và đáp ứng với người khác. Khoảng 2 tuần tuổi, trẻ ưa thích giọng nói của con người hơn những âm thanh khác, khoảng 4 tuần tuổi trẻ thích giọng nói của mẹ hơn giọng nói của người khác. Vào tháng thứ 2, giao tiếp mắt được thiết lập và tiền tố của gắn bó được thấy khi trẻ hướng về phía người chăm sóc và báo hiệu các nhu cầu của trẻ. Trong giai đoạn kế tiếp, từ 3-6 tháng tuổi, trẻ bắt đầu biểu lộ  và gợi lên sự vui thích trong tương tác con người thông qua nụ cười xã hội ( Social smile). Trong thực tế, người lớn thực hiện nhiều trò khôi hài để gợi lên nụ cười như thế, điều này cho thấy hành vi này có giá trị và đáp ứng như thế nào trong cuộc sống, nó đảm bảo không chỉ một sự gắn bó khoẻ mạnh hình thành mà còn là sự tương tác qua lại. Giữa 6-9 tháng, trẻ gia tăng khả năng phân biệt được người chăm sóc trẻ và những người lớn khác và dành phần thưởng cho người đặc biệt này bằng “nụ cười ưu ái” . Cả hai vấn đề lo âu chia cách (Separation anxiety) và lo âu người lạ ( Stranger anxiety) là tín hiệu cho thấy  rằng trẻ có ý thức rằng người chăm sóc trẻ có một chức năng và giá trị độc nhất. Từ 12-24 tháng tuổi, bò và bước đi cho phép trẻ điều chỉnh được sự gần gũi hoặc khoảng cách xa đối với người chăm sóc. Tìm kiếm gần gũi (Proximity-seeking), cũng được xem như là hành vi có nền tảng an toàn, lúc đó trẻ quay về phía người chăm sóc để được thoải mái, trợ giúp, và đơn giản là để “ nạp thêm năng lượng cảm xúc”. Khoảng 3 tuổi, mục tiêu của gắn bó được mở rộng ra ngoài sự an toàn và dễ chịu của trẻ và trở nên có tính qua lại hơn. Trong những năm tuổi mẫu giáo, gắn bó được hướng về phía thành lập một mối liên hệ đối tác có hướng đến mục tiêu, trong sự cộng tác này nhu cầu và cảm xúc của cả hai bên tham gia vào mối liên hệ được xem xét đến.

Các kiểu gắn bó:

Gắn bó an toàn: Trẻ có gắn bó an toàn có hướng khám phá môi trường một cách tự do và tương tác tốt với người lạ khi có sự hiện diện của người chăm sóc. Trẻ có thể bị khó chịu bởi chia cách và nếu có, trẻ sẽ phản đối và giới hạn lại việc khám phá môi trường khi người chăm sóc vắng mặt. Trong lúc gặp mặt lại, trẻ đón chào người chăm sóc một cách tích cực và tìm kiếm tiếp xúc với người này và sẵn sàng được dỗ dành, trẻ cũng có thể quay lại chơi sau một lúc được tái nạp năng lượng cảm xúc. Hành vi của người chăm sóc được ghi nhận bởi sự nhạy bén với nhu cầu của trẻ. Đặc biệt là người chăm sóc đọc được các tín hiệu của trẻ một cách chính xác và đáp ứng một cách nhanh chóng, phù hợp và với một cảm xúc tích cực.

Gắn bó tránh né không an toàn:

Trong gắn bó tránh né, trẻ dường như độc lập một cách sớm hơn bình thường. Trẻ dường như không dựa vào người chăm sóc để có được sự an toàn khi người chăm sóc hiện diện , trẻ khám phá căn phòng rất độc lập và đáp ứng với người chăm sóc và người lạ như nhau. Trẻ đáp ứng rất ít đối với sự vắng mặt của người chăm sóc, đôi khi trẻ thậm chí không nhìn theo khi người chăm sóc rời khỏi. Trong lúc gặp mặt lại, những trẻ này tránh né sự gần gũi với người chăm sóc, trẻ có thể quay đi, tránh giao tiếp mắt, và phớt lờ người chăm sóc.  Mặc dầu trẻ có vẻ thờ ơ nhưng khi đo lường các chỉ số sinh lý cho thấy trẻ thực ra có khó chịu. Hành vi của người chăm sóc được ghi nhận bằng sự xa cách và  thiếu vắng sự dỗ dành đi kèm với  khó chịu và giận dữ trong khi gần gũi. Người ta cho rằng né tránh là sự cố gắng của trẻ để đối mặt với nhu cầu của cha mẹ muốn cách xa bằng cách trẻ giữ đáp ứng thấp và kềm chế biểu lộ cảm xúc mà nó có thể gây ra sự từ chối của cha mẹ.

Gắn bó chống đối không an toàn:  Ngược lại với trẻ né tránh,trẻ có gắn bó  chống đối ( cũng được gọi là hai chiều) bị bận rộn với người chăm sóc, trẻ có khuynh hướng bám dính vào và bị ức chế từ việc khám phá căn phòng hoặc từ việc tương tác với người lạ ngay cả khi có mặt của người chăm sóc. Trẻ dễ bị khó chịu khi chia cách, nhưng khi gặp mặt lại, trẻ cố gắng chống đối một cách giận dữ  khi gần gũi và không dễ dỗ dành. Trẻ đáp ứng với mẹ bằng kiểu tìm kiếm gần gũi hai chiều và từ chối. Ví dụ, trẻ có thể đòi hỏi được bế ẵm rồi sau đó đẩy người chăm sóc ra xa một cách giận dữ hoặc trẻ có thể bám vào người chăm sóc nhưng lại ưỡn cong người ra ngoài và từ chối chấp nhận sự chăm sóc của mẹ. Hành vi của người chăm sóc được ghi nhận bằng khả năng không thể dự đoán được, đôi khi người chăm sóc gần gũi quá mức và lúc khác thì lại không liên quan với trẻ hay khó chịu. Chống đối được xem như là những cố gắng của trẻ nhằm để có được sự chú ý của người chăm sóc, trong khi đó giận dữ lại đến từ việc ấm ức về chăm sóc không tương hợp.

Gắn bó rối loạn tổ chức không an toàn: Loại này mới được thêm vào sau này. Trẻ bị rối loạn tổ chức hoạt động theo một cách thức không tương hợp hay khác lạ. Những trẻ này có thể có một biểu lộ ngạc nhiên hay đi lang thang xung quanh không có mục đích hay sợ hãi và hai chiều trong sự hiện diện của người chăm sóc, không biết là trẻ tiếp cận với người chăm sóc để được dễ chịu hay tránh né để được an toàn. Nếu trẻ tìm kiếm sự gần gũi, trẻ làm như thế theo cách thức bóp méo như là tiếp cận với người chăm sóc ở phía sau hay bất thình lình lạnh lung và nhìn chằm chằm vào khoảng không. Không giống như trẻ nhỏ có gắn bó né tránh và chống đối, những trẻ này dường như không phát triển một chiến lược ổn định để tiếp xúc với người chăm sóc. Khoảng 5% trẻ trong dân số bình thường có biểu lộ kiểu gắn bó này.

Hành vi của người chăm sóc được ghi nhận bằng cách sử dụng những tín hiệu nhầm lẫn như là dang tay ra trong khi lùi lại , người ta cũng quan sát thấy ở những người chăm sóc này đối xử theo cách thức khác lạ và sợ hãi. Vì thế, gắn bó rối loạn tổ chức cho thấy một một sự sụp đổ về chiến lược hệ thống trong việc đối diện với môi trường đe doạ và không tiên đoán được.

Học thuyết quan hệ đối tượng