Trẻ tự kỷ (1)

                                                                                                        TRẺ TỰ KỶ

                                                                                                                                                               BS.Phan Thiệu Xuân Giang

 Định nghĩa: Thuật ngữ tự kỷ Autism có gốc từ Hy Lạp: Autos, có nghĩa là “ tự thân”.

Bs tâm thần Eugen Bleuler đầu tiên sử dụng từ này để mô tả triệu chứng rút lui xã hội ở những bệnh nhân có xáo trộn nặng nề mà ông quan sát ở vào khoảng đầu của thế kỷ 20, những bệnh nhân này có thể là bệnh nhân tâm thần phân liệt hoặc trầm cảm.

BS tâm thần nhi khoa  Leo Kanner (1943) ở Baltimore, Hoa Kỳ, (BS. Leo Kanner là người sáng lập ra khoa tâm thần nhi khoa của Đại học Y Khoa Johns Hopkins vào năm 1930, ông cũng là thầy thuốc được xác định là bác sĩ tâm thần nhi khoa đầu tiên của Hoa Kỳ), ông cũng  đã sử dụng thuật ngữ để mô tả một nhóm bệnh nhân cùng có 3 đặc tính quan trọng: Một mình, mong muốn sự giống nhau, có các vấn đề về ngôn ngữ: chậm phát triển ngôn ngữ, nhại lời, hiểu theo nghĩa đen…

Định nghĩa theo DSM-IV-TR: tự kỷ nằm trong nhóm các rối loạn phát triển lan toả (PDD: Pervasive Developmental Disorders): Là một nhóm hội chứng được đặc trưng bởi suy kém nặng nề và lan toả trong những lãnh vực phát triển: tương tác xã hội, giao tiếp và sự hiện diện của những hành vi và các ham thích  rập khuôn .

 1)Suy kém về tương tác xã hội: Cách ly xã hội và không có khả năng liên hệ với người khác. Ví dụ: trong những tình huống mặt đối mặt, trẻ tự kỷ nặng sẽ không nhìn vào mặt bạn, thậm chí còn tránh khỏi bạn.

Có 3 kiểu suy kém về tương tác:

*Nhóm trẻ có khuynh hướng tách rời: Trẻ tách ly và nằm trong vỏ bọc của chúng, trẻ không đáp ứng xã hội với người khác, không tìm kiếm giao tiếp mắt và thường chủ động né tránh, không thích tiếp xúc thân thể như được ôm, không đáp ứng với người chăm sóc  bằng sự thích thú, phấn khởi.

*Nhóm trẻ có khuynh hướng thụ động: Những trẻ này chấp nhận những khởi đầu xã hội của người khác nhưng theo cách dễ phục tùng và thờ ơ. Ví dụ trẻ dễ làm theo trẻ khác, tuân theo một cách thụ động.

*Nhóm trẻ kỳ quặc: Những trẻ này có quan tâm đến người khác nhưng lại thiếu hiểu biết xã hội và thiếu khả năng đánh giá những tiêu chuẩn cho hành vi bình thường. Ví dụ: Trẻ có thể tiếp cận người lạ , sờ vào họ mà không phân biệt lạ quen, hỏi những câu hỏi không thích hợp, không có nhận biết rằng những cách thức như thế sẽ làm khó chịu người khác.

Những nhóm trẻ này cũng có thể thay đổi về cách thức theo quá trình phát triển chứ không phải cố định ở một kiểu.

2)Suy kém về giao tiếp: Thường là ở mức độ nặng, khoảng một nửa trẻ tự kỷ là ở dạng câm, tức là chưa bao giờ học nói, phần còn lại là trẻ có âm ngữ không giao tiếp ( noncommunicative speech) ví dụ như: nhại lời tức là trẻ lập lại một cách chính xác những từ hay câu nói của người khác mà không có cố gắng để hiểu  được ý nghĩa của câu nói, nói chuyện theo một kiểu riêng biệt như nói một câu không phù hợp với tình huống.

Ngôn ngữ của trẻ tự kỷ cũng thường theo nghĩa đen và thông thái giả tạo, ví dụ khi y tá bảo trẻ đưa tay cho cô ấy xem thì trẻ tự kỷ lại sợ là tay mình bị lấy đi khỏi! (Frith, 2003), hay khi gọi điện thoại cho người bà con thì trẻ lại tỏ ra quá lịch sự, khi nghe người ta tưởng như giả tạo: Đây là Tuấn, Tuấn cháu cô Xuân, đang gọi đây!

Dùng đại từ nhân xưng ngược: “ Bạn” thay vì “ tôi”: khi trẻ muốn ra ngoài trẻ sẽ nói: Bạn muốn ra ngoài!  Sử dụng tên thay vì dùng đại từ tôi hay em hay con, ví dụ: Sơn muốn đi chơi.

Ngôn ngữ thiếu nhịp điệu và ngữ điệu: trẻ nói bằng giọng đều đều và không đặt cảm xúc vào trong ngôn ngữ.

Chơi cũng là phương thức thông qua đó trẻ giao tiếp nhưng trẻ tự kỷ thường có khuynh hướng chơi một mình và không biết chơi biểu tượng ( chơi giả vờ). Tuy nhiên khi có gợi ý thì khả năng chơi giả vờ của trẻ tự kỷ cũng bằng với trẻ chậm phát triển tâm thần, điều này gợi ý rằng không phải trẻ tự kỷ không có khả năng chơi giả vờ nhưng do không có động cơ chơi như trẻ bình thường.

3) Hành vi và những ham thích có tính định hình và giới hạn:

Trẻ có thể ngồi trên sàn nhà và lắc người tới lắc lui trong một thời gian dài, trẻ có thể lật chiếc xe đồ chơi lên và xoay bánh xe cùng với giọng điệu ê a của mình, chạy ra cửa sổ, gõ tay lên cửa rồi chạy về xoay bánh xe như cũ!

Các triệu chứng này xuất hiện trước 3 tuổi. Để có được một chẩn đoán đầy đủ là tự kỷ thì phải có ít nhất 6 trong 12 triệu chứng phải hiện diện (Xem thêm DSM-IV-TR).

 

Trẻ đòi hỏi sự giống nhau:

Ăn một loại thức ăn, một loại chén, mặc một loại quần áo, đi cùng một con đường, sắp xếp đồ vật theo đúng một cách thức. Khi có những thay đổi ở môi trường thì trẻ tỏ ra sợ hãi và lo lắng thậm chí có thể lên cơn nổi giận.

Định nghĩa theo ICD 10: Xếp các rối loạn phát triển lan toả từ F84.0 đến F84.9

Các đặc tính đi kèm:

*Xử lý cảm giác:

-Trẻ quá nhạy cảm

-Trẻ kém nhạy cảm

*Thiên tài tự kỷ: Một số trẻ tự kỷ (khoảng 10%) có khả năng đặc biệt ví dụ như nhớ được cả sổ điện thoại, tính toán những phương trình phức tạp, tạo ra các giai điệu, biết được ngày thứ mấy trong tuần khi cho biết ngày tháng năm, học được  ngoại ngữ. Tuy nhiên hầu hết các trẻ tự kỷ đều có suy kém về mặt nhận thức ở tất cả các lãnh vực.

 CÁC ĐẶC ĐIỂM:

Tuổi khởi phát: Phải trước 3 tuổi, tuy nhiên rất khó để có thể chẩn đoán được tự kỷ trước 1 tuổi mặc dầu có những dấu hiệu tinh tế đã xuất hiện ở tuổi này.

Các dấu hiệu cảnh báo tự kỷ:

-Không biết cười lớn tiếng hoặc có những biểu lộ vui vẻ, thích thú khác ở 6 tháng tuổi

-Không chia sẻ qua lại với những âm thanh, nụ cười, hoặc biểu lộ nét mặt ở lúc 9 tháng

-Không biết bập bẹ lúc 12 tháng

-Không biết nói từ đơn lúc 16 tháng

-Không nói được cụm từ đôi một cách tự nhiên lúc 24 tháng ( không phải là nhại lời)

-Không chú ý đến giọng nói của người khác vào lúc 24 tháng

-Không nhìn vào mặt và mắt người khác lúc 24 tháng

-Không biểu lộ quan tâm đến trẻ khác vào lúc 24 tháng

-Không biết bắt chước vào lúc 24 tháng

-Mất ngôn ngữ và kỹ năng xã hội ở bất kỳ tuổi nào

Filipek và cộng sự (1999) liệt kê những quan tâm của cha mẹ có ý nghĩa cảnh báo tự kỷ:

-Quan tâm về xã hội: Không biết cười xã hội, chơi một mình, rất độc lập, giao tiếp mắt kém, ở trong chính thế giới của trẻ, không hoà hợp, không quan tâm đến trẻ khác

-Quan tâm về giao tiếp: Không đáp ứng khi gọi tên, không biết nói với cha mẹ điều trẻ muốn, không theo hướng dẫn, giống như bị điếc, có lúc nghe nhưng lúc khác lại không nghe, không biết chỉ hoặc vẫy tay chào tạm biệt

Quan tâm về hành vi: Những cơn nổi giận, tăng động, không hợp tác hoặc chống đối, không biết chơi với đồ chơi, lập đi lập lại , đi nhón gót, gắn bó khác thường với một số đồ chơi, xếp đồ cho thẳng hàng, quá nhạy cảm với một số cảm giác xúc giác hoặc âm thanh, có những kiểu vận động ngón tay hoặc cơ thể khác lạ.

 Tỷ lệ lưu hành:

Khoảng 5/10.000, tuy nhiên thay đổi tuỳ theo nghiên cứu, những nghiên cứu gần đây cho thấy có sự gia tăng gấp 10 lần so với 20 năm trước ở Mỹ. Tỷ lệ giao động khoảng từ 3,8-60/10.000.  Tỷ lệ này còn cao hơn cả tiểu đường type I , mù, hội chứng Down, ung thư ở trẻ em. Hiện tại ở Mỹ có khoảng 1 triệu người bị tự kỷ và tiêu tốn hàng năm cho các dịch vụ hết khoảng 90 tỷ USD.Theo Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh (The Center for Disease Control), tỷ lệ lưu hành năm 2007 ở Mỹ là 6-7 trẻ / 1000 (CDC,2007).Trẻ nhũ nhi có nguy cơ bị tự kỷ được xác định ngày càng gia tăng và ở tuổi sớm hơn.Tuy nhiên cũng có những trẻ không được chẩn đoán cho đến khi đi học mẫu giáo. Theo thống kê của bệnh viện nhi đồng 1, TP.Hồ Chí Minh, số lượng trẻ tự kỷ được chẩn đoán tại đơn vị tâm lý gia tăng từng năm, năm 2003: 3 trẻ; năm 2004: 30 trẻ, năm 2005: 63 trẻ; năm 2006: 86 trẻ; năm 2007: 230 trẻ; 9 tháng đầu năm 2008: 354 trẻ (BS.Phạm Ngọc Thanh và cộng sự, 2008). Tỷ lệ gia tăng này có thể là do có sự chú ý hơn của các thầy thuốc và các câu hỏi để phát hiện ngày càng nhạy hơn, cũng một phần do các phương tiện truyền thông làm cho cha mẹ ý thức hơn về vấn đề phát triển của con mình và mang trẻ đi khám bệnh nhiều hơn. Khi mức độ chính xác của hệ thống chẩn đoán gia tăng thì nhiều trẻ tự kỷ được chẩn đoán chính xác hơn.Hiện tại cũng có nhiều công cụ sàng lọc tự kỷ cho tuổi nhũ nhi ( ví dụ: First Year Inventory; Reznick, Baranek, Reavis, Watson & Crais, 2007), công cụ sàng lọc dành cho trẻ dưới 24 tháng: M-CHAT, những thang sàng lọc khác như  CARS (Eric Schober, Robert J. Reichler, Babara Rochen Renner),GARS ( Gilliam Autism Rating Scales) dành cho trẻ lớn hơn, những thang này còn đánh giá luôn cả mức độ nặng nhẹ.Trong nhiều trường hợp, chẩn đoán có thể được thực hiện một cách đáng tin cậy ở giai đoạn sớm khoảng 24 tháng tuổi ( Lord và cộng sự, 2006). Chẩn đoán sai lầm hoặc chậm trễ trong chẩn đoán có thể là vấn đề nghiêm trọng vì sẽ làm mất cơ hội cho việc thực hiện các chương trình can thiệp sớm và làm giới hạn kiến thức khoa học về quá trình phát triển sớm của trẻ. Ở Việt Nam, tại TP.HCM chúng tôi cũng nhận thấy có những trẻ khi được mang đến khám lúc 3-4 tuổi đã có những triệu chứng rất rõ của tự kỷ ở giai đoạn sớm hơn nhưng cha mẹ lại khai rằng do đi khám bệnh và được thầy thuốc tổng quát khuyên là cứ chờ đợi mà không được làm một test sàng lọc nào, ở các khoa tâm lý và tâm thần thì có cập nhật thông tin cũng như có chương trình huấn luyện về trẻ tự kỷ. Có những trường hợp trẻ có các triệu chứng của tự kỷ đi kèm theo những triệu chứng của bất thường hình thái ( dysmorphism) nhưng chúng ta cũng chưa có đủ phương tiện để chẩn đoán những rối loạn về gene.  Có thể một nguyên nhân trong chậm trễ chẩn đoán  là do chương trình đào tạo nhi khoa hiện tại chưa chú trọng đến tự kỷ và các rối loạn phát triển khác, đặc biệt là kinh nghiệm lâm sàng. Ở Hà Nội, tự kỷ được đưa vào dạy trong chương trình đào tạo nhi khoa năm 2004 ( ThS.BS. Nguyễn Thị Thanh Mai, 2008). Ở thành phố Hồ Chí Minh thì chưa có. Trong DSM-PC dành cho chăm sóc sức khoẻ ban đầu của Viện hàn lâm nhi khoa Hoa Kỳ cũng có phần nói rõ về tự kỷ nhằm giúp các bác sĩ nhi khoa tổng quát hoặc các bác sĩ gia đình phát hiện sớm và gửi trẻ đi khám chuyên khoa kịp thời. Chương trình đào tạo nhi khoa của Úc cũng có chú trọng đến lãnh vực rối loạn phát triển.

 

 

                            Theo dõi quá trình phát triển thường quy

                                 không có gì lo ngại            

                                                                            có dấu hiệu nghi ngờ

                         Đánh giá lại lần kế tiếp                

1.    Đo thính lực, khám thị giác, XN chì

2.    Sàng lọc đặc hiệu về tự kỷ (M-CHAT, SCQ, ASDS)                 

                                      sàng lọc dương tính:

                                    Sàng lọc âm tính:                     

                                                                                             Lượng giá chẩn đoán                            

                          ·      Lượng giá phát triển                       

                        ·      Tìm kiếm nguyên nhân y khoa       

                                                      

                                                                                   Lượng giá chẩn đoán:

                                                                                    *Tâm lý

                                                                                    *Âm ngữ /ngôn ngữ   

                                                                                       trị liệu

                                                                                    *Hoạt động trị liệu

                                                                                    * Xét nghiệm y

                                                                           khoa nếu nghĩ đến     

                                                                          nguyên nhân và vđề đi kèm

            BẢNG KIỂM TRA  SÀNG LỌC TỰ KỶ Ở TRẺ NHỎ

                                       

                            (M-CHAT; Robins và cộng sự)

 Họ và tên trẻ:

 Ngày tháng năm sinh:

 Họ và tên cha:                                                    Năm sinh:

 Họ và tên mẹ:                                                    Năm sinh:

Ngày trả lời câu hỏi:

 Người trả lời:

 Trả lời các câu hỏi sau đây theo mức độ trẻ thường xuyên có, cố gắng trả lời từng câu hỏi, nếu hành vi liệt kê dưới đây chỉ xảy ra rất ít ( khoảng 01 hay 02 lần) thì trả lời là không.

        1)   Con bạn có thích được đong đưa hay hay nhún nhảy( ví dụ chơi cần cẩu khi ngồi trên chân bạn)?                                              Có     không

   2)   Con bạn có biểu lộ quan tâm đến trẻ khác?                   Có    không

        3)   Con bạn có thích leo trèo? Ví dụ leo cầu thang             Có     không

   4)   Con bạn có thích chơi trò chơi trốn tìm hay ú oà không?  Có   không

  5)   Con bạn có bao giờ biết giả vờ, ví dụ: nói chuyện giả vờ qua điện thoại, đút ăn cho búp bê, hoặc những trò chơi giả vờ khác? Có không

     6)   Trẻ có bao giờ dùng ngón trỏ để chỉ hay yêu cầu điều gì đó? Có không

    7)   Trẻ có bao giờ dùng ngón trỏ để chỉ hay cho thấy trẻ thích thú điều gì đó?                                                                   Có     không

  8)   Trẻ có biết chơi đúng theo các loại đồ chơi ( xe hơi, khối hình) mà không đưa vào miệng ngậm , chơi không đúng hay làm rơi chúng       Có    không

   9) Trẻ có bao giờ mang đồ vật đến để khoe với cha mẹ?   Có     không

  10) Trẻ có nhìn vào mắt bạn lâu hơn một hoặc 2 giây?          Có     không

   11) Trẻ có bao giờ biểu hiện quá nhạy cảm với tiếng ồn ( ví dụ: bịt tai)?    Có    không

  12) Trẻ có mỉm cười khi nhìn thấy mặt bạn hay thấy bạn cười?     Có  không

 13) Trẻ có biết bắt chước bạn không? ( ví dụ nếu bạn nhăn mặt, trẻ có biết bắt chước không?)                                              Có     không

 14) Trẻ có biết đáp lại khi gọi tên trẻ không?              Có     không

 15) Nếu bạn chỉ vào một đồ chơi trong phòng, trẻ có nhìn theo không?  Có  không

 16) Trẻ có biết đi không?        Có   không

 17) Trẻ có nhìn vào những đồ vật mà bạn đang nhìn không?  Có   không

 18) Trẻ có đưa tay lên gần mặt và làm những động tác kỳ lạ không?  Có   không

 19) Trẻ có cố gắng thu hút sự chú ý của bạn đối với hoạt động của trẻ không?                                                                                     Có   không

 20) Có bao giờ bạn tự hỏi không biết con mình có bị điếc không? Có    không

 21)  Trẻ có hiểu được người khác nói gì không?    Có    không

 22) Trẻ có đôi lúc nhìn chằm chằm vào khoảng không hay đi thơ thẩn không có mục đích không?        Có    không

 23) Trẻ có nhìn vào mặt bạn để kiểm tra đáp ứng của bạn khi trẻ phải đối diện với điều mới lạ? Có   không

 TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN RỐI LOẠN TỰ KỶ THEO DSM-IV-TR

 A.   Có tổng số 6 mục ( hoặc hơn) trong các phần (1), (2) và (3), trong đó có ít nhất 2 mục từ phần (1) và 1 mục từ phần (2) và (3):

1)    Suy kém về chất lượng trong các tương tác xã hội, được biểu hiện bằng ít nhất 2 trong các triệu chứng sau đây:

a)     Suy kém rõ rệt trong việc sử dụng nhiều  hành vi không lời nói như liếc mắt với người khác, biểu lộ qua nét mặt, tư thế cơ thể, cử chỉ nhằm để điều chỉnh tương tác xã hội

b)    Thất bại trong việc phát triển các mối quan hệ bạn bè thích hợp với mức phát triển của trẻ

c)     Thiếu sự tìm kiếm tự động nhằm chia sẻ vui thích, các quan tâm và kết quả đạt được với người khác ( ví dụ như thiếu việc cho người khác xem, mang đến hoặc chỉ cho thấy các đồ vật quan tâm)

d)    Thiếu sự trao đổi qua lại về xã hội hoặc cảm xúc

2)    Các suy kém về chất lượng trong giao tiếp được biểu hiện bằng ít nhất 1 trong

những triệu chứng sau đây:

a)     Chậm trễ hoặc thiếu vắng hoàn toàn sự phát triển về ngôn ngữ nói ( không có kèm theo việc cố gắng bù trừ bằng các phương thức giao tiếp  thay thế như cử chỉ hay điệu bộ)

b)    Ở những cá thể có ngôn ngữ đầy đủ thì tiêu chuẩn là suy kém rõ rệt về khả năng khởi đầu hay duy trì một đối thoại với người khác

c)     Sử dụng ngôn ngữ theo cách định hình lập đi lập lại hoặc ngôn ngữ kỳ lạ

d)    Thiếu vắng trò chơi giả vờ theo cách tự nhiên và phong phú hoặc thiếu trò chơi bắt chước xã hội phù hợp với mức phát triển của trẻ

3)    Các kiểu hành vi, các ham thích, các hoạt động lập đi lập lại giới hạn và định hình

được biểu hiện bằng ít nhất 1 trong những triệu chứng sau đây:

a)     Bận rộn bao quanh một hoặc nhiều hơn các kiểu vui thích giới hạn và định hình bất thường về cường độ hoặc mức tập trung

b)    Bám dính một cách cứng ngắc rõ rệt đối với các thói quen hoặc các nghi thức hằng ngày đặc biệt, không có chức năng

c)     Các cách thức vận động định hình và lập đi lập lại ( Ví dụ như vẫy tay hoặc ngón tay, nhảy hoặc vận động toàn cơ thể)

d)    Bận rộn thường xuyên với các phần của vật thể

   B. Chậm trễ hoặc thực hành chức năng bất thường trong ít nhất 1 trong các lãnh vực

     sau đây, khởi phát trước 3 tuổi:

1)    Tương tác xã hội

2)    Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội , hoặc

3)    Chơi biểu tượng.

  C. Xáo trộn này không giải thích được rối loạn Rett hay rối loạn giải thể ở tuổi nhỏ.

   Giới tính:

 Tỷ lệ nam: nữ là 4:1. Ở mức IQ thấp nhất, tỷ lệ nam: nữ là 2:1, ngược lại ở mức độ IQ cao nhất thì tỷ lệ nam: nữ là 15:1. Nam chiếm tỷ lệ cao hơn nữ có thể là do một số khả năng ngôn ngữ được bảo vệ nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X, hoặc do những yếu tố điều chỉnh nội tiết tố ( Knickmeyer, Baron-Cohen, Raggatt & Taylor,2005). Tuy nhiên trẻ nữ khi bị thì dễ có chậm phát triển tâm thần ở mức độ nặng đi kèm ( IQ< 35) và có biểu hiện nhiều triệu chứng nặng hơn so với nam giới có rối loạn này ( Volkmar và cộng sự, 1993). Hơn nữa, tỷ lệ nguy cơ tái xuất hiện tự kỷ ở  anh chị em của trẻ nữ có tự kỷ cao hơn gấp 2 lần so với anh chị em của trẻ nam có tự kỷ ( Jorde và cộng sự, 1990).

Tầng lớp xã hội, chủng tộc và văn hoá:

Những nghiên cứu trước đây cho rằng tự kỷ lưu hành ở tầng lớp xã hội cao nhiều hơn, tuy nhiên những nghiên cứu gần đây lại cho thấy rằng điều này đơn giản chỉ do khuynh hướng chọn mẫu trong dân số ( những người ở tầng lớp xã hội cao thường dễ tìm đến các phòng khám hơn!). Tỷ lệ lưu hành tự kỷ không liên quan đến tầng lớp xã hội và chủng tộc. Nhiều nghiên cứu được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau cho thấy có những điểm chung về rối loạn này(Evans &Lee, 1998; Schriebman & Charop-Christy,1998).

Các vấn đề đi kèm:

-Các vấn đề về y khoa: Các vấn đề về y khoa có thể chẩn đoán được: các bất thường về di truyền, khiếm khuyết gene chiếm một phần nhỏ ( có thể lên đến 10%), bao gồm các rối loạn đơn hay đa gene ( hội chứng Angelman, bệnh xơ củ (tuberous clerosis), hội chứng nhiễm sắc thể X mỏng manh, hội chứng Rett…

 -Chậm phát triển tâm thần: Khoảng 35% trẻ tự kỷ có chậm phát triển tâm thần đi kèm( Baird và cộng sự, 2000).

- Lo âu: Chiếm khoảng 7-84%, đặc biệt liên quan đến đến các yếu tố kích thích mà trẻ nhạy cảm.

-Động kinh: Chiếm khoảng 11-39% các trường hợp, thường thì trẻ nữ và trẻ có chậm phát triển đi kèm sẽ dễ bị hơn (Ballaban-Gil & Tuchman,2000). Khởi phát động kinh thường xảy ra trước 3 tuổi hay trong thời kỳ dậy thì ( từ 11-14 tuổi) ( Gillberg& Steffenburg,1987; Goode, Rutter & Howlin, 1994; Volkman & Nelson, 1990).

-Thoái lùi: có khoảng 1/3 các cha mẹ báo rằng có sự thoái lùi. Động kinh thường ở những trẻ thoái lùi

-Tic : khoảng 6%

-Các triệu chứng tiêu hoá: táo bón, trào ngược dạ dày thực quản , tiêu chảy…chiếm khoảng 18-52%. Cũng có những trường hợp thấy tăng sản hạch lympho trong ruột.

-Rối loạn chức năng miễn dịch: không tương đồng trong tất cả các nghiên cứu

-Suy kém thị giác hoặc thính giác: khoảng 7-20% suy kém thính giác, 4% suy kém thị giác

-Tăng động kém chú ý

-Hành vi ám ảnh

-Rối loạn lưỡng cực: khoảng 15% ở những người lớn bị tự kỷ

-Các vấn đề về hành vi khác: gây hấn, tự gây tổn thương, tự kích thích…

 HỘI CHỨNG ASPERGE:

Năm 1944,tại Vienna, nước Aó, Hans Aperger cũng mô tả một nhóm trẻ em có triệu chứng như Kanner mô tả, trẻ tránh giao tiếp mắt, ngôn ngữ của trẻ thiếu giai điệu,thường là đơn điệu, trẻ có các vận động kiểu định hình kỳ lạ, trẻ không đáp ứng với cảm xúc của người khác.

Định nghĩa theo DSM-IV-TR:

Sự khác biệt chủ yếu ở trẻ có hội chứng Asperger so với trẻ trẻ kỷ là những trẻ không bị chậm trễ trong phát triển ngôn ngữ và không có suy kém về nhận thức rõ rệt. Nhiều tác giả không đồng ý với việc tách rời hội chứng Asperger riêng ra khỏi tự kỷ, họ cho rằng hội chứng này chỉ là loại ít bị nặng hơn nằm trong rối loạn phổ tự kỷ( Frith,2003).

Các đặc tính kèm theo:

-Trẻ thường có ám ảnh cưỡng chế : các hành vi và nghi thức như là tích trữ và lập lại các sự việc.

-Ngôn ngữ: trẻ có phát triển về ngôn ngữ nhưng hay nói chuyện về một đề tài hạn hẹp nào đó mà trẻ thích, trẻ thiếu sự luân phiên, thiếu sử dụng các giao tiếp không lời nói như tiếp xúc mắt và biểu lộ nét mặt.

 Đặc điểm:

Tỷ lệ lưu hành: khoảng 1%  dân số chung, gần bằng tỷ lệ của tâm thần phân liệt.

Giới tính:

tỷ lệ nam: nữ là 15: 1.

Tuổi khởi phát:

 Thường phát hiện trễ khi trẻ phải đối diện với những thay đổi trong quá trình phát triển đặc biệt là giai đoạn tìm kiếm bạn thân, tuy nhiên người ta cho rằng rối loạn này có ngay từ mới sanh nhưng do triệu chứng không đủ nặng để phát hiện.

Các vấn đề đi kèm:

Lo âu và trầm cảm là những vấn đề hay đi kèm theo, đặc biệt là vào giai đoạn tuổi vị thành niên và tuổi trưởng thành. Các nghiên cứu cũng thấy rằng những thanh niên có rối loạn Asperger hay hội chứng Asperger thường hay có ý thức đau khổ vì khả năng xã hội suy kém của mình cũng như bị loại ra khỏi xu hướng hội nhập chính của xã hội con người. Những nhận xét tiêu cực này có thể làm cho trẻ khó chịu và thất vọng.

HỘI CHỨNG ASPERGER ( Theo DSM-IV-TR)

A.Suy kém chất lượng trong tương tác xã hội được biểu hiện bằng ít nhất 2 trong các   triệu chứng sau đây:

1)    Suy kém rõ rệt trong việc sử dụng các hành vi không lời nói đa dạng như : Liếc mắt với mắt, biểu lộ nét mặt, tư thế cơ thể, cử chỉ nhằm điều chỉnh tương tác xã hội.

2)    Thất bại trong sự phát triển các mối quan hệ bạn bè thích hợp với mức phát triển.

3)    Thiếu khả năng tìm kiếm  tự động nhằm chia sẻ niềm vui thích, quan tâm hoặc các điều đạt được với người khác ( Ví dụ như thiếu việc cho người khác thấy, hoặc chỉ ra các đồ trẻ thích thú cho người khác thấy).

4)    Thiếu tính qua lại về cảm xúc và xã hội.

          B.Các hoạt động, quan tâm , các kiểu hành vi giới hạn lập đi lập lại, định hình

         được biểu lộ bởi ít nhất 1 trong những triệu chứng sau:

1)    Bận rộn xung quanh một hay nhiều hơn các kiểu ham thích giới hạn và định hình

Mà có bất thường về cường độ hay mức độ tập trung vào.

2)    Bám dính không linh hoạt rõ ràng vào các thói quen đặc hiệu, không có chức năng hoặc các nghi thức.

3)    Các kiểu vận động lập đi lập lại, định hình ( Ví dụ: vẫy tay hay vẫy ngón tay, nhảy hoặc các vận động toàn thân phức tạp).

4)    Bận rộn thường xuyên với các phần của vật th

C.Xáo trộn này gây ra suy kém có ý nghĩa trên lâm sàng về xã hội, nghề nghiệp hay các lãnh vực thực hành chức năng khác.

          D.Không có chậm trễ toàn thể có ý nghĩa trên lâm sàng về ngôn ngữ.

       E.Không có chậm trễ có ý nghĩa trên lâm sàng về phát triển nhận thức hoặc phát triển các kỹ năng tự trợ giúp phù hợp với tuổi, hành vi đáp ứng ( hơn cả trong tương tác xã hội) và sự tò mò về môi trường xung quanh trong thời kỳ ấu thơ.

        F.Các tiêu chuẩn này không gặp trong các tiêu chuẩn để chẩn đoán rối loạn phát triển lan đặc hiệu khác hay tâm thần phân liệt (Theo DSM-IV-TR-2000). (Còn tiếp)

Bệnh viện Johns Hopkins, nơi Leo Kanner đã trình bày 11 ca tự kỷ đầu tiên